Chu Trường Chính
Trump dám tăng thuế quan đối với hơn 180 quốc gia và khu vực, sẵn sàng từ bỏ các quy tắc kinh tế và thương mại quốc tế mà Hoa Kỳ duy trì kể từ Thế chiến thứ II, dẫn đến tình trạng bán tháo hoảng loạn trên thị trường chứng khoán và trái phiếu cũng như sự hỗn loạn dữ dội trên thị trường tài chính. Chúng ta vẫn phải điều tra nguồn gốc ý tưởng phát động chiến tranh thuế quan của ông.
Sau khi hiểu được bản chất của “thuế quan qua lại” của Trump, nhiều nhà kinh tế cho rằng đây là sự tiếp nối của dự án Ngày Cá tháng Tư, “sử dụng sai công cụ để giải quyết một vấn đề không tồn tại”. Quyết định này đã bị hủy bỏ 14 giờ sau khi có hiệu lực, làm tăng thêm tính hài hước của chính sách dễ gây tranh cãi này. Tuy nhiên, Trump đã dám tăng thuế đối với hơn 180 quốc gia và khu vực, đồng thời sẵn sàng từ bỏ các quy tắc kinh tế và thương mại quốc tế mà Hoa Kỳ đã duy trì kể từ Thế chiến thứ II, dẫn đến tình trạng bán tháo hoảng loạn trên thị trường chứng khoán và trái phiếu cũng như sự biến động dữ dội trên thị trường tài chính. Chúng ta vẫn phải điều tra nguồn gốc ý tưởng phát động chiến tranh thuế quan của ông.
Thuế quan vừa là phương tiện vừa là mục đích tự thân
Hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng các cuộc tấn công của Trump vào tất cả các đối tác thương mại và thậm chí cả các hòn đảo không có người ở cho thấy ông coi thuế quan là con bài mặc cả và phương tiện ngoại giao thuận tiện nhất, từ việc buộc Colombia phải tiếp nhận những người nhập cư bất hợp pháp hồi hương vào đầu năm cho đến việc đe dọa Nga vào tháng trước sẽ đạt được thỏa thuận ngừng bắn càng sớm càng tốt, và tăng thuế đối với Trung Quốc, một quốc gia có thặng dư thương mại lớn đã dám trả đũa, lên mức hiếm có.
Để tăng cường sức thuyết phục và tính hợp lý của "thuế quan qua lại" và công thức tính toán của chúng, cố vấn thương mại của Trump là Navarro và Bộ trưởng Tài chính Bessant gần đây đã tuyên bố rằng việc áp dụng các mức thuế quan khác nhau đối với các quốc gia khác nhau không chỉ tính đến khoảng cách trong thuế quan song phương mà còn bao gồm các rào cản thương mại như thao túng tiền tệ (tỷ giá hối đoái), tình trạng bảo vệ sở hữu trí tuệ và tiếp cận thị trường. Tầm nhìn mà họ hình dung với cử tri Mỹ là thuế quan sẽ khuyến khích hoạt động sản xuất quay trở lại Hoa Kỳ và mang lại nhiều doanh thu cho kho bạc.
Có thể thấy từ đây rằng việc Trump tự gọi mình là Người đánh thuế không phải là tự hạ thấp bản thân mà ông ấy nghiêm túc - ông ấy và đội ngũ của mình tin rằng việc tăng thuế sẽ mang lại nguồn thu ổn định cho chính quyền liên bang, tức là thuế quan (không chỉ là phương tiện) chính là mục đích.
Ông không chỉ nói rằng "thuế quan" là từ đẹp nhất trong từ điển mà còn ký một sắc lệnh hành pháp vào ngày đầu tiên nhậm chức, yêu cầu thành lập "Sở Thuế vụ" để thu thuế quan và các khoản thu khác liên quan đến thương mại nước ngoài (Bộ Thương mại và Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới Hoa Kỳ thực tế đã tồn tại trong chính quyền liên bang). Trong mắt đội ngũ của Trump, thuế quan là giải pháp chữa bách bệnh cho thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ và có thể "bảo vệ đất nước khỏi sự bóc lột của nước ngoài"; khi việc thực hiện quyền lực tổng thống này cũng có thể đe dọa những kẻ đầu cơ bên ngoài và mang lại những lợi ích khác, Trump sẽ càng tin tưởng hơn vào quyền lực của mình.
Sự ám ảnh của Trump về vai trò của doanh thu thuế quan có nguồn gốc từ đó. Các loại thuế quan đầu tiên của Hoa Kỳ, chẳng hạn như Đạo luật Thuế quan năm 1789, một trong những đạo luật đầu tiên được Quốc hội đầu tiên thông qua, được thiết kế nhằm (1) thúc đẩy thương mại, (2) tăng doanh thu cho chính quyền liên bang và (3) bảo vệ các ngành sản xuất mới nổi của Hoa Kỳ. Bối cảnh vào thời điểm đó là chính phủ, do thiếu nguồn thu, đã háo hức áp thuế đối với các sản phẩm nhập khẩu ngay khi dự luật vẫn còn trong giai đoạn đề xuất. Mặc dù các nhà lập pháp tôn trọng hệ thống thương mại tự do, họ tin rằng nó có thể tạo ra doanh thu tài chính khi cần thiết.
Douglas Irwin, một nhà sử học kinh tế người Mỹ và là giáo sư tại Đại học Dartmouth, đã phát hiện trong nghiên cứu của mình rằng trong hơn 200 năm qua, chính sách thương mại của Hoa Kỳ luôn hướng tới ba mục tiêu: tăng doanh thu của chính phủ bằng cách áp thuế đối với các sản phẩm nhập khẩu; hạn chế nhập khẩu và bảo vệ các nhà sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài; và đạt được các thỏa thuận có đi có lại để giảm rào cản thương mại, cụ thể là các mục tiêu "3R" (thuế, doanh thu; hạn chế, hạn chế; có đi có lại, có đi có lại). Sự khác biệt giữa các chính sách trong các giai đoạn khác nhau nằm ở mục tiêu nào được ưu tiên.
Thu nhập không đáng tin cậy
Trước và sau khi áp dụng biện pháp “thuế quan tương hỗ”, Trump và những người khác đã nói về lợi ích cho ngân khố nhờ biện pháp này. Trong một cuộc phỏng vấn đầu tháng này, Navarro cho biết ông ước tính Hoa Kỳ sẽ thu được khoảng 600 đến 700 tỷ đô la mỗi năm thông qua thuế quan. Khi Trump ký lệnh hành pháp tại Nhà Trắng vào ngày 26 tháng 3 để áp dụng mức thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu, ông đã phát biểu trước đông đảo phóng viên rằng mức thuế quan tương hỗ sẽ giúp doanh thu của Hoa Kỳ tăng thêm 700 tỷ đô la, lên 1 nghìn tỷ đô la trong vòng hai năm. Tuy nhiên, Bessant, người có kinh nghiệm trong đầu tư quỹ, lại khá bảo thủ. Ông tin rằng nó sẽ mang lại 300 đến 600 tỷ đô la Mỹ mỗi năm và đây là một quá trình năng động. Ban đầu, có thể có nhiều doanh thu thuế quan, nhưng khi ngành sản xuất phát triển, doanh thu thuế thu nhập sẽ tăng và doanh thu thuế quan sẽ giảm tương ứng.
Nhà kinh tế trưởng của Moody's, Mark Zandi tin rằng không thể kiếm được hàng trăm tỷ đô la mỗi năm và sẽ rất may mắn nếu có được một hoặc hai trăm tỷ đô la. Phillip Swagel, giám đốc Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO), đã đưa ra ước tính tương tự: thuế quan có thể giúp nền kinh tế Hoa Kỳ tăng thêm 800 tỷ đô la trong thập kỷ tới. Con số này thấp hơn nhiều so với ước tính của Trump và chưa tính đến các cuộc phản công từ các quốc gia khác.
Kế hoạch doanh thu thuế quan không chỉ gặp phải các biện pháp đối phó từ Trung Quốc, Liên minh châu Âu và Canada trên thực tế mà còn có lỗ hổng về giả định lý thuyết. Wei Shangjin, giáo sư thỉnh giảng tại Khoa Tài chính Quốc tế thuộc Đại học Phục Đán, đề xuất rằng các biện pháp đối phó của các đối tác thương mại sẽ tự nhiên làm giảm lượng xuất khẩu trong tương lai của Hoa Kỳ. Hơn nữa, ngay cả khi các đối tác thương mại không có biện pháp đối phó, theo "Định lý đối xứng Lerner" của thương mại quốc tế, dưới sự bảo vệ của thuế quan mới, nếu các công ty hiện thiếu sức cạnh tranh quốc tế mở rộng sản xuất, họ chắc chắn sẽ phải cạnh tranh về nguồn nhân lực và tài chính từ các công ty cạnh tranh khác (như các công ty xuất khẩu). Kết quả là, trong khi nhập khẩu của Hoa Kỳ giảm, xuất khẩu cũng sẽ đồng thời giảm. Điều này sẽ không giúp giảm bớt vấn đề thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ.
Thực tế về sự thay đổi doanh thu của chính phủ Hoa Kỳ cũng có thể phá vỡ tầm nhìn của Trump.
Từ khi đất nước giành được độc lập cho đến năm 1860, thuế nhập khẩu đã trở thành nguồn thu chính của chính quyền liên bang Hoa Kỳ trong giai đoạn kinh tế nông nghiệp, chiếm tới 90%; từ năm 1860 đến năm 1913, với việc áp dụng các loại thuế khác, doanh thu thuế quan đã giảm xuống còn khoảng một nửa doanh thu của chính phủ; sau khi thuế thu nhập ra đời vào năm 1913, tỷ lệ doanh thu thuế quan tiếp tục giảm xuống mức rất nhỏ.
Ngày nay, 230 năm sau, theo dữ liệu từ Bộ Tài chính Hoa Kỳ, trong tổng doanh thu 4,92 nghìn tỷ đô la mà chính quyền liên bang thu được trong năm tài chính 2024, thuế thu nhập cá nhân và thuế an sinh xã hội chiếm phần lớn tuyệt đối, lần lượt chiếm 49,3% và gần 36%, trong khi doanh thu thuế quan là 76,4 tỷ đô la chỉ chiếm 1,6%.
Nếu cuộc chiến thuế quan dẫn đến suy thoái kinh tế, không chỉ doanh thu thuế quan của Trump bị đe dọa mà sự sụt giảm đồng thời của thuế thu nhập cá nhân, thuế an sinh xã hội, thuế thu nhập doanh nghiệp, v.v. cũng sẽ có tác động đòn bẩy tiêu cực hơn.
Một ví dụ trong lịch sử là vào năm 1930, Đạo luật thuế quan Smoot-Hawley mang tính bảo hộ cao đã được thông qua trong bối cảnh có nhiều nghi ngờ (hơn 1.000 nhà kinh tế đã đưa ra tuyên bố chung phản đối mức thuế quan cao). Mặc dù dự luật này không tăng thuế quá mức, với mức thuế quan trung bình chỉ tăng chưa đến 6 điểm phần trăm so với vài năm trước, nhưng nó lại được đưa ra vào thời điểm không thích hợp - trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Thuế quan làm trầm trọng thêm sự suy giảm thương mại và kết hợp với giảm phát đẩy nền kinh tế Hoa Kỳ vào cuộc Đại suy thoái. Các quốc gia như Canada đã phản ứng mạnh mẽ trước mức thuế quan cao này và cuối cùng khoảng 40 quốc gia đã có hành động trả đũa. Bộ luật này nhằm mục đích bảo vệ nông dân Mỹ, nhưng nó lại có tác dụng ngược lại.
Một sự thịnh vượng khác của thời đại hoàng kim
Sự ám ảnh của Trump về thuế quan cũng xuất phát từ sự ngưỡng mộ của ông đối với Tổng thống thứ 25 của Hoa Kỳ, William McKinley (nhiệm kỳ từ tháng 3 năm 1897 đến tháng 9 năm 1901), mặc dù sự ngưỡng mộ này là một sự hiểu lầm.
Trump gọi McKinley là "Vua thuế quan" và ca ngợi ông trong bài diễn văn nhậm chức vì đã sử dụng "thuế quan và trí tuệ tài chính" để làm cho nước Mỹ trở nên giàu có và hùng mạnh. Khi được hỏi MAGA ám chỉ đến giai đoạn lịch sử nào, ông chỉ vào thời kỳ McKinley, mà một số người gọi là Thời đại mạ vàng. Trump coi giai đoạn từ năm 1870 đến năm 1913 là giai đoạn giàu có nhất ở Hoa Kỳ, với lập luận rằng thuế quan cao đã bảo vệ các doanh nghiệp Mỹ và mang lại sự thịnh vượng kinh tế.
Điểm đầu tiên mà Trump bỏ qua là Thời đại hoàng kim đã mang lại khối tài sản khổng lồ cho một nhóm nhỏ người, trong khi hầu hết người Mỹ thực tế vẫn còn nghèo. Hãng thông tấn Associated Press từng trích dẫn lời các nhà sử học kinh tế nói rằng Trump đã lý tưởng hóa một thời đại đầy rẫy tham nhũng trong chính phủ và doanh nghiệp, bất ổn xã hội và bất bình đẳng, khi mức sống không được cải thiện khi đo bằng tuổi thọ và các yếu tố khác. Vào cuối thế kỷ 19, trong quá trình chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp hóa ở Hoa Kỳ, các tập đoàn lớn trong các ngành công nghiệp như thép, dầu mỏ và đường sắt đã lần lượt xuất hiện. Những ông trùm mới nổi như John Rockefeller và J.P. Morgan có ảnh hưởng rất lớn đến các chính trị gia, và các chính trị gia thường giúp những người trước đây mở rộng đế chế kinh doanh và tài chính của họ.
Một câu chuyện ẩn giấu khác là sự phục hồi kinh tế vào thời điểm đó là do các yếu tố khác ngoài thuế quan. Năm 1890, McKinley, khi đó là chủ tịch Ủy ban Tài chính và Phương tiện của Hạ viện, đã thúc đẩy việc xây dựng và thông qua dự luật thuế quan mang tên ông, dự luật này đã làm tăng đáng kể thuế quan. Sau cuộc suy thoái kinh tế vào năm 1897, ngay sau khi McKinley nhậm chức tổng thống, ông đã thúc giục Quốc hội thông qua Đạo luật thuế quan Dingley, khôi phục lại mức thuế quan cao. Thuế suất trung bình tăng từ 42% trước đó lên 52% vào năm 1899. Cùng lúc đó, nguồn cung vàng toàn cầu tăng nhanh chóng và điều kiện tiền tệ trở nên lỏng lẻo, thúc đẩy nền kinh tế thế giới phục hồi mạnh mẽ và giá cả hàng hóa bắt đầu tăng. Nền kinh tế Hoa Kỳ cũng được cải thiện đáng kể, với sự gia tăng việc làm và thu nhập của người lao động, mang lại cho McKinley biệt danh "Sứ giả của sự thịnh vượng". Tuy nhiên, thật là hiểu lầm lớn khi nghĩ rằng dự luật thuế quan của ông đã mang lại sự phục hồi kinh tế.
Tương tự như vậy, sự gia tăng xuất khẩu hàng hóa sản xuất của Hoa Kỳ như thép và đồng vào đầu thế kỷ, góp phần chiếm lĩnh thị phần lớn trên thị trường quốc tế, không liên quan nhiều đến chính sách thuế quan hoặc thậm chí là sự hỗ trợ của chính phủ Hoa Kỳ; nền kinh tế cũng được hưởng lợi từ sự gia tăng nhanh chóng dân số Hoa Kỳ và sự mở rộng đô thị trong giai đoạn đó.
Một điểm nữa là McKinley không phải là người theo chủ nghĩa biệt lập và bảo hộ hoàn toàn như Trump và đội ngũ của ông tưởng tượng.
Ban đầu, McKinley thực sự là người theo chủ nghĩa bảo hộ thương mại kiên định. Ông tin rằng những lợi thế hàng đầu mà Hoa Kỳ đạt được trong nông nghiệp, khai khoáng và sản xuất vào thời điểm đó là thành quả của việc áp dụng thuế quan bảo hộ trước đó. Nhưng trong thời gian làm tổng thống, để cân nhắc đến lợi ích của nhiều ngành công nghiệp khác nhau, ông cũng thành lập một bộ phận đặc biệt trong Bộ Ngoại giao để đàm phán các thỏa thuận có đi có lại với các nước châu Âu và Trung Mỹ (mặc dù hầu hết các thỏa thuận đều bị Thượng viện chặn lại). Vào tháng 9 năm 1901, McKinley đã có bài phát biểu tại Triển lãm toàn châu Mỹ ở Buffalo và thậm chí còn đề xuất đảo ngược chính sách thương mại.
Ông khẳng định rõ ràng rằng kỷ nguyên của chủ nghĩa độc quyền đã là chuyện của quá khứ. Làm thế nào để thúc đẩy mở rộng thương mại của Hoa Kỳ là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết. Một cuộc chiến thương mại gây hại nhiều hơn lợi.
Thật không may, McKinley đã bị ám sát vài ngày sau Hội chợ triển lãm và qua đời trước khi ông có thể hoàn tất việc điều chỉnh chính sách.
Chỉ hơn một thập kỷ sau đó, việc áp dụng thuế thu nhập đã làm thay đổi đáng kể nguồn thu và cơ cấu của chính quyền liên bang. Hai mươi năm sau, Đạo luật Thỏa thuận Thương mại qua lại (RTAA, 1934) của chính quyền Franklin Roosevelt đã thay thế Đạo luật Thuế quan Smoot-Hawley tồn tại trong thời gian ngắn, và các thỏa thuận qua lại để giảm thuế quan và rào cản phi thuế quan đã trở thành chủ đề chính của kỷ nguyên mới.
Hiện tại, các biện pháp thuế quan của Trump gợi nhớ đến bối cảnh những năm 1930, khi Hoa Kỳ sẵn sàng từ bỏ các đối tác thương mại, quay lại chủ nghĩa đơn phương và phá bỏ hệ thống thương mại toàn cầu đã được duy trì trong nhiều thập kỷ. Tác động sâu sắc mà nó mang lại đã phá vỡ những giả định của ông về lợi ích của thuế quan và tầm nhìn của ông về sự thịnh vượng kinh tế.