Nguồn: FT Chinese
Chuyến đi của Trump tới Trung Đông tràn ngập âm thanh của chim bồ câu và cành ô liu, trái ngược hoàn toàn với tiếng trống trận của cuộc chiến thuế quan hơn một tháng trước. Ở Trung Đông, Trump ca ngợi "những phép màu lấp lánh" của các quốc gia Trung Đông, nói rằng chúng được tạo ra bởi chính người dân Trung Đông, chứ không phải bởi những người theo chủ nghĩa can thiệp phương Tây. Ngược lại, các chính sách can thiệp tự do và tân bảo thủ mà Hoa Kỳ theo đuổi trong nhiều thập kỷ đã phải chịu thất bại thảm hại ở Trung Đông. Đối mặt với tương lai, "ngay cả khi có những khác biệt lớn giữa chúng ta, tôi vẫn sẵn sàng gác lại những xung đột trong quá khứ và làm việc vì một thế giới tốt đẹp hơn, ổn định hơn. Tôi sẽ luôn ủng hộ hòa bình và hợp tác, mãi mãi. Tôi tin rằng việc phán xét là công việc của Chúa, và công việc của tôi là bảo vệ nước Mỹ và thúc đẩy sự ổn định, thịnh vượng và hòa bình."
Sự thay đổi của Trung Đông
Khi diễn đàn công khai và các cuộc đàm phán bí mật diễn ra, phác thảo về chính sách Trung Đông mới của Hoa Kỳ đã dần trở nên rõ ràng.
Một mặt, hợp tác kinh tế đã trở thành nền tảng cho việc xây dựng mối quan hệ mới của Hoa Kỳ tại Trung Đông. Trong chuyến thăm, Ả Rập Xê Út, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Qatar và các nước khác đã đón tiếp Tổng thống Hoa Kỳ theo nghi thức cao nhất, với áo choàng trắng và ngựa bạc, thảm đỏ khổng lồ và điệu múa Ayala. Họ đã cam kết đầu tư hàng nghìn tỷ đô la vào Hoa Kỳ và ký các thỏa thuận mua sắm và hợp tác cụ thể trị giá hàng trăm tỷ đô la. Các tập đoàn lớn đi cùng như Musk, Huang Renxun, OpenAI, Google, Amazon, Boeing, General Electric, Citigroup và các giám đốc điều hành công ty khác đã tổ chức các cuộc đàm phán sâu rộng với chính quyền địa phương để tìm ra điểm hội tụ giữa các nước Trung Đông và Hoa Kỳ trong lĩnh vực kinh tế và đầu tư.
Ví dụ, Tesla sẽ xây dựng một siêu nhà máy ở Saudi Arabia để sản xuất xe điện và thiết bị lưu trữ năng lượng. Google có kế hoạch đầu tư vào cơ sở hạ tầng điện toán đám mây và trí tuệ nhân tạo của Ả Rập Xê Út để hỗ trợ quá trình chuyển đổi số "Tầm nhìn 2030" của Ả Rập Xê Út. OpenAI sẽ hợp tác với thành phố mới NEOM để phát triển hệ thống quản lý đô thị do AI điều khiển. Boeing và General Electric của Hoa Kỳ đã giành được các hợp đồng lớn để mua hàng trăm máy bay Boeing 787 "Dreamliners" và Boeing 777X, đồng thời mời các công ty Mỹ đầu tư số tiền lớn để chuyển đổi ngành khai thác và lọc dầu trong nước. Quy mô các thỏa thuận mua bán vũ khí được ký kết giữa Saudi Arabia cũng đạt tới 142 tỷ đô la Mỹ, lập kỷ lục trong lịch sử các thỏa thuận mua bán vũ khí.
Mặt khác, khi giải quyết các tranh chấp khu vực, chúng tôi nhấn mạnh đàm phán hòa bình là cách tiếp cận chính và đặt chiến tranh hoặc mối đe dọa chiến tranh vào vị trí thứ yếu. Về vấn đề gai góc trong quan hệ giữa Israel và các nước Ả Rập, Trump đã thể hiện sự hiểu biết sâu sắc hơn về lập trường của các nước Ả Rập và thúc đẩy Ả Rập Xê Út cùng các nước khác bình thường hóa quan hệ với Israel. Chính quyền Trump đã điều chỉnh chính sách đối với Syria từ trừng phạt sang cơ hội, tuyên bố miễn trừ trừng phạt sau cuộc gặp với các nhà lãnh đạo Syria. Điều này mang lại cho chính phủ Syria mới nhiều không gian hơn cho các lựa chọn chính sách, không chỉ là xích lại gần Nga và Iran và thù địch với phương Tây như lựa chọn thực tế duy nhất. Đối với Iran, chính quyền Trump đã đưa ra "củ cà rốt lớn và cây roi to" và, với tiền đề là ảnh hưởng của Iran ở Trung Đông đã bị suy giảm đáng kể và sức mạnh quốc gia của nước này cũng bị suy yếu đáng kể, đã tiến hành các cuộc đàm phán tích cực với điều kiện Iran phải từ bỏ vũ khí hạt nhân là yêu cầu cốt lõi duy nhất.
Đằng sau những thay đổi trong chính sách Trung Đông của Hoa Kỳ là một tư duy chiến lược đầy tham vọng hơn. Mặc dù Trump không nói rõ về điều này, nhưng rất rõ ràng là mọi bài phát biểu và định hướng chính sách của ông đều cho thấy Trump đang cố gắng đảo ngược định hướng cơ bản của các chính phủ trước về trật tự an ninh toàn cầu. Sự thay đổi như vậy chắc chắn không phải là một động thái đột ngột và vô mục đích. Đã có sự suy ngẫm và suy nghĩ sâu rộng trong nhóm tư tưởng bảo thủ. Từ thời Huntington và Patrick Buchanan cho đến Mearsheimer và những người khác trong những năm gần đây, dòng suy nghĩ này chưa bao giờ bị gián đoạn.
Bối cảnh lý thuyết
Trong vài thập kỷ qua, đặc biệt là trong 30 năm sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ mới đã thống trị chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ. Từ Clinton đến Bush Jr. rồi đến Obama, Hoa Kỳ vẫn duy trì cách tiếp cận nhất quán đối với trật tự an ninh quốc tế. Cho dù là chủ nghĩa tiến bộ (chính quyền Dân chủ) hay chủ nghĩa bảo thủ mới (chính quyền Bush con), những người ủng hộ chủ nghĩa này tin vào sự cáo chung của lịch sử và rằng việc hiện đại hóa các quốc gia không phải phương Tây không chỉ khả thi mà còn cần thiết. Họ cũng không ngại sử dụng vũ lực để đạt được điều này. Chỉ trong vòng 20 năm sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Hoa Kỳ đã tham gia bảy cuộc chiến tranh và cường độ chiến tranh tăng gấp ba lần so với trước năm 1990.
Chủ nghĩa tự do coi tự do cá nhân là giá trị cao nhất và cam kết bảo vệ những người có quyền bị vi phạm nghiêm trọng. Áp dụng vào quan hệ quốc tế, nguyên tắc này thúc đẩy những người theo chủ nghĩa tự do hành động theo chiến lược tấn công. Nếu những người có quyền bị xâm phạm nghiêm trọng ở một quốc gia khác, điều này có thể thúc đẩy một chính phủ tự do can thiệp vào quốc gia đó. Không có gì ngạc nhiên khi có nhiều cuộc chiến tranh hơn trên thế giới dưới thời các chính phủ Tiến bộ.
Theo chiến lược tấn công như vậy, không gian và cơ hội giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp ngoại giao sẽ bị thu hẹp. Suy cho cùng, ngoại giao bao gồm việc mặc cả và nhượng bộ lẫn nhau giữa các quốc gia đang xung đột về các vấn đề quan trọng. Nhưng chủ nghĩa tự do lại đơn giản hóa nó thành vấn đề đạo đức về công lý và cái ác. Theo lời của Trump, "Quá nhiều tổng thống Mỹ trong những năm gần đây bị ám ảnh bởi quan niệm rằng nhiệm vụ của chúng ta là thẩm tra tâm hồn của các nhà lãnh đạo nước ngoài và sử dụng chính sách của Mỹ để thực thi công lý cho tội lỗi của họ."
Kết quả là, ở một số quốc gia, các chính phủ phù hợp với môi trường sinh thái của quốc gia và có khả năng cai trị ổn định bị những người theo chủ nghĩa can thiệp phương Tây lật đổ, nhưng họ không thể thiết lập một chính phủ tuân thủ mô hình chủ nghĩa tiến bộ tự do phương Tây, điều này lại gây ra tình trạng bất ổn dân sự hoặc phản công trong khu vực; Ở các nước khác, các chính phủ phương Tây và các tổ chức quốc tế do phe tự do thống trị (như Ngân hàng Thế giới, IMF, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, v.v.) buộc các chính quyền địa phương phải chấp nhận các dự án chuyển đổi kinh tế và xã hội theo chủ nghĩa tự do của phương Tây. Những khuyến nghị về chính sách này cùng các khoản viện trợ và cho vay liên quan thường bị lãng phí cho các quan chức tham nhũng địa phương và các dự án lớn thất bại, từ đó làm chậm sự phát triển của nền kinh tế địa phương. Ví dụ về trường hợp đầu tiên bao gồm Afghanistan, Syria và các quốc gia khác, nơi sự can thiệp mạnh mẽ của phương Tây không những không mang lại hòa bình và thịnh vượng mà còn đẩy họ vào cuộc chiến tranh kéo dài. Những ví dụ về điều sau được minh họa đầy đủ trong các cuốn sách về viện trợ của phương Tây, chẳng hạn như The White Man's Burden: Why Western Aid Always Has So Little Effect.
Lý do tại sao các dự án chuyển đổi xã hội thường đi kèm với những thảm họa lớn thường bao gồm hai yếu tố chính. Theo phân tích của James Scott trong tác phẩm The State Sees: How Projects to Improve the Human Condition Fail, yếu tố đầu tiên là một chính phủ độc tài sẵn sàng và có khả năng sử dụng toàn bộ sức mạnh cưỡng chế của mình để thực hiện các thiết kế kỹ thuật hiện đại; yếu tố thứ hai là một xã hội dân sự yếu kém, không có khả năng chống lại những kế hoạch này. Nói cách khác, điều kiện tiên quyết cho sự thành công của những người theo chủ nghĩa can thiệp phương Tây chính xác là những gì họ đang cố gắng phá hủy, điều đó có nghĩa là các chính sách can thiệp của phương Tây khó có thể đạt được thành công như họ mong đợi.
Đồng thời, họ hiểu thế giới theo quan điểm tự do hơn là cách tiếp cận thực tế, điều này đã gây ra sự thù địch từ các cường quốc như Nga và Trung Quốc.
Trong cuốn sách The Grand Illusion: The Liberal Dream and International Reality, Mearsheimer chỉ ra rằng "chính sách bá quyền tự do" không chỉ sai lầm trong thế giới hậu Chiến tranh Lạnh mà còn trong suốt Chiến tranh Lạnh. Thật vậy, từ Đông Âu đến Trung Quốc, cuộc đấu tranh với Moscow đang nổi lên nhanh chóng. Vào thời điểm đó, nếu Hoa Kỳ cởi mở hơn trong việc tìm kiếm mối quan hệ hữu nghị với các nước cộng sản và có cách tiếp cận thực tế để theo đuổi lợi ích của Mỹ trong các mối quan hệ như vậy, thì kết quả sẽ tốt hơn là sử dụng vũ lực thường xuyên.
Đối với các cường quốc chịu trách nhiệm về trật tự an ninh quốc tế, họ phải và nên đối xử với quan hệ quốc tế bằng thái độ thực tế. Vào thời điểm này, chiến lược tốt nhất để các nước lớn đối phó với các nước nhỏ là tránh can dự vào chính trị nội bộ của họ và không xâm lược hay chiếm đóng họ trừ khi thực sự cần thiết. Nói cách khác, nếu chúng ta thực sự tôn trọng chủ quyền quốc gia, và "người dân ở mọi quốc gia đều có quyền lựa chọn con đường phù hợp nhất với mình", thì Hoa Kỳ không nên đóng vai trò là roi của Chúa, ngay cả khi con đường đó là sai (trong mắt những người theo chủ nghĩa tự do).
Trật tự mới
Hiện nay, trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, tình hình thế giới đang diễn biến theo hướng lưỡng cực với một cực mạnh và một cực lớn. Sự thay đổi này sẽ thúc đẩy chính phủ Hoa Kỳ từ bỏ khái niệm an ninh tự do và áp dụng khái niệm an ninh thực tế. Phản ứng của chính quyền Trump là ngừng tập trung vào các thỏa thuận an ninh đa phương và sử dụng các công cụ chính sách song phương dựa nhiều hơn vào lợi ích của Hoa Kỳ. Ở Châu Âu, buộc các nước Châu Âu phải tự đảm nhận nhu cầu quốc phòng và an ninh của mình; trong nước, xây dựng lực lượng quân sự mạnh hơn; trên toàn cầu, tránh dễ dàng tiến hành chiến tranh với các nước nhỏ và đối phó với mọi loại nhà cầm quyền để đạt được thỏa thuận (trao đổi hoặc thỏa hiệp) có lợi cho Hoa Kỳ, thay vì vạch ra ranh giới dựa trên hệ tư tưởng.
Nguyên lý này không thể được gọi là chủ nghĩa biệt lập, mà đúng hơn là chủ nghĩa hiện thực hạn chế. Điều này hoàn toàn giống với chủ nghĩa hiện thực hạn chế của Đế quốc Anh vào thế kỷ 19. Vào thời điểm đó, Anh không mấy quan tâm đến việc lật đổ những người cai trị truyền thống của một nơi nào đó, nhưng vẫn muốn gây ảnh hưởng. Khi những người cai trị này thách thức mạnh mẽ các lợi ích cốt lõi của Anh, Anh sẽ không ngần ngại tấn công và trừng phạt họ, nhưng hiếm khi tìm cách lật đổ những người cai trị.
Nói cách khác, cách suy nghĩ này cho rằng những thay đổi của một quốc gia là dần dần và mang tính tiến hóa. Mỗi quốc gia có cuộc sống và con đường riêng. Sự ổn định và phát triển của cơ cấu quyền lực chính trị bị hạn chế bởi tình hình trong nước cụ thể và mô hình huy động chính trị. Chúng ta nên có thái độ chờ đợi và quan sát theo học thuyết Darwin đối với tình hình này, chờ đợi sức mạnh của quá trình tiến hóa và thời gian để dần cải thiện tình hình và duy trì hòa bình, ổn định. Trong quá trình này, nếu chế độ của một quốc gia có thể học cách hòa hợp với thế giới bên ngoài, thì chắc chắn họ sẽ thúc đẩy quá trình hiện đại hóa và tự do hóa cơ cấu quản trị nội bộ.
Chương trình nghị sự tiến bộ gia tăng như vậy vượt trội hơn nhiều so với lập trường kỹ thuật xã hội của chủ nghĩa tự do. Tất nhiên, trật tự mới của Trump không phải là sự bắt chước và quay trở lại trật tự toàn cầu của Đế quốc Anh mà mang những đặc điểm của một kỷ nguyên mới. Với tiền đề là trật tự an ninh quốc gia như vậy, sự thay đổi chính sách tại ba điểm nóng toàn cầu là điều dễ hiểu. Về vấn đề này, tôi đã có một phân tích ngắn gọn cách đây ba tháng trong bài viết "Dù thích hay ghét thì chủ nghĩa Trump vẫn tồn tại" và bây giờ tôi có thể mở rộng thêm một chút.
Đầu tiên là Trung Đông. Hầu hết các nước Trung Đông đã thiết lập được trật tự chính trị ổn định và đạt được những tiến bộ to lớn trên con đường hiện đại hóa kinh tế. Nếu Hoa Kỳ từ bỏ lập trường can thiệp vào việc xây dựng nhà nước và thay vào đó tìm kiếm sự chung sống hòa bình giữa các quốc gia, xung đột giữa các nước Trung Đông và Hoa Kỳ sẽ giảm đáng kể. Sau nhiều năm chiến tranh, các nước Ả Rập và Israel đã đạt được sự đồng thuận trên thực tế về việc cùng tồn tại, sức mạnh quốc gia và vai trò khu vực của Nga, Iran và Syria cũng suy giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách Trung Đông mới của Hoa Kỳ. Nếu vấn đề Gaza có thể được giải quyết thỏa đáng trong tương lai, nhiều thập kỷ chiến tranh ở Trung Đông dự kiến sẽ được cải thiện đáng kể.
Thứ hai là Châu Âu. Thách thức mà châu Âu phải đối mặt là các chính sách mới mà Trump theo đuổi lại xung đột và khác biệt đáng kể so với các chính phủ tự do của các nước châu Âu. Thật vô cùng khó khăn để thuyết phục nhiều quốc gia khác nhau hoặc cải cách Liên minh châu Âu. Trong tình huống này, thay vì dành nhiều thời gian và công sức hơn để thu hẹp bất đồng, Trump có xu hướng lạnh nhạt với các thỏa thuận an ninh đa phương, tạo điều kiện cho Hoa Kỳ đi theo con đường riêng của mình.
Một mặt, Hoa Kỳ hy vọng các nước châu Âu sẽ đảm nhận trách nhiệm tự vệ và giảm bớt gánh nặng cho Hoa Kỳ; Mặt khác, cách tiếp cận của nước này đối với việc hòa giải cuộc chiến tranh Nga-Ukraine khác với các nước châu Âu.
Liên quan đến cuộc chiến tranh Nga-Ukraine, Mearsheimer lên án chính sách mở rộng NATO về phía đông của phương Tây. Tóm lại, NATO không nên mở rộng về phía đông, và Nga không nênbắt đầu một cuộc chiến tranh. Vấn đề Nga “không nên” bắt đầu chiến tranh được thảo luận từ góc độ đạo đức, trong khi NATO “không nên” mở rộng về phía đông được thảo luận từ góc độ lý trí công cụ. Trump không đồng ý với việc NATO mở rộng về phía Đông, tin rằng động thái này sẽ đẩy Nga vào thế thù địch, là không cần thiết và cần phải sửa đổi. Trước đây, những người theo chủ nghĩa tự do tin rằng việc mở rộng về phía đông không phải là thù địch với Nga, nhưng các điều kiện chính trị và lịch sử cụ thể của Nga khiến Nga không đồng tình với điều này. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy lý công cụ, suy nghĩ của Nga có tác động lớn hơn đến tác động thực tế của chính sách so với suy nghĩ của những người theo chủ nghĩa tự do.
Đối với Trump, việc làm trung gian đúng đắn cho cuộc chiến tranh Nga-Ukraine và biến Nga từ kẻ thù thành một quốc gia không nhất thiết phải thân thiện nhưng ít nhất không phải là kẻ thù có ý nghĩa to lớn đối với trật tự an ninh toàn cầu.
Kịch bản ngược lại được những người theo chủ nghĩa tự do phương Tây ưa chuộng, cụ thể là làm mọi cách có thể để giúp Ukraine và buộc Nga phải chấp nhận các điều khoản hòa bình có lợi cho Ukraine và châu Âu. Tuy nhiên, chi phí chiến lược và chiến thuật của con đường này là rất lớn.
Về mặt chiến thuật, nếu NATO không muốn đối đầu trực tiếp với Nga, một cường quốc sở hữu vũ khí hạt nhân, thì sẽ rất khó để buộc Nga chấp nhận các điều kiện chỉ bằng cách dựa vào viện trợ quân sự cho Ukraine. Điều này không chỉ gây ra hàng trăm nghìn thương vong trong quân đội và dân thường, mà còn khiến Hoa Kỳ và Châu Âu phải đầu tư quá nhiều nguồn lực hạn chế của họ vào lĩnh vực này, và về mặt logic ngụ ý một "kế hoạch lớn" nhằm định hình lại nền chính trị Nga. Về mặt chiến lược, việc đẩy Nga vào vị thế kẻ thù không đội trời chung không có lợi cho trật tự an ninh toàn cầu, cũng không có lợi cho nhu cầu chiến lược của Hoa Kỳ trong việc đối đầu với đối thủ thách thức duy nhất của mình.
Nếu lựa chọn này bị từ bỏ, thì các lựa chọn để đạt được hòa bình giữa Nga và Ukraine sẽ bị hạn chế. Ukraine có thể phải đối mặt với việc mất đi lợi ích quốc gia để đổi lấy hòa bình quý giá nhằm tái thiết đất nước bị tàn phá và để thời gian đứng về phía mình. Mục tiêu không phải là đánh bại hoàn toàn Nga mà là tạo điều kiện để nước này chuyển đổi từ kẻ thù thành quốc gia không phải kẻ thù, đồng thời cho phép nước này tái gia nhập trật tự quốc tế. Theo lộ trình này, để làm trung gian cho cuộc chiến, lời nói (như đưa ra những tuyên bố cứng rắn trước công chúng mà giới truyền thông hoan nghênh) không quan trọng, nhưng việc gây sức ép lên cả phe cánh tả và cánh hữu để tạo ra tình hình cho các cuộc đàm phán hòa bình là điều quan trọng. Việc chính quyền Trump kiên quyết không lên án công khai Tổng thống Putin nên được coi là một bước tiến trong việc thực hiện kế hoạch này.
Hòa bình giữa Nga và Ukraine vẫn chưa đạt được, nhưng sau 3 năm, hai bên đã ngồi vào bàn đàm phán lần đầu tiên và một thỏa thuận khai thác mỏ giữa Ukraine và Hoa Kỳ đã được đạt được. Vào ngày 19 tháng 5, Trump đã nói chuyện qua điện thoại với tổng thống Nga và Ukraine để làm trung gian. Có thể nói rằng tình hình hiện tại gần với hòa bình hơn là xa vời, và hoàn toàn khác biệt so với tình hình của ba tháng trước.
Thứ ba, quan trọng nhất là khu vực Thái Bình Dương. Ở đây, Hoa Kỳ phải tập trung hầu như toàn bộ nguồn lực của mình để giải quyết thách thức thực sự: đối mặt với cường quốc duy nhất trên thế giới có khả năng thách thức vị thế của Hoa Kỳ. Trong những hoàn cảnh như vậy, việc tăng ngân sách quốc phòng, củng cố xây dựng quân đội, theo đuổi vị thế dẫn đầu về công nghệ quân sự và định hình lại trật tự kinh tế và thương mại toàn cầu là điều không thể tránh khỏi (xem bài viết trong chuyên mục này vào đầu tháng 4, "Thương mại tự do đã chết và thương mại có đi có lại sẽ gia tăng").
Tin tốt là, theo tinh thần bài phát biểu về Trung Đông của Trump, có nhiều không gian cho sự chung sống hòa bình giữa Hoa Kỳ và cường quốc phương Đông, nghĩa là tuân thủ các cam kết của các chính phủ Hoa Kỳ liên tiếp, tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc, tôn trọng con đường mà nhân dân Trung Quốc đã lựa chọn và phản đối chiến tranh. Điều này giúp Trung Quốc xích lại gần Hoa Kỳ hơn thay vì đẩy nước này ra xa hơn.
Câu hỏi
Sự trở lại với chính trị quốc tế thực tế không phải là điều mới mẻ trong lịch sử Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thời thế đã thay đổi và sự thay đổi của Trump chắc chắn sẽ phải đối mặt với những thách thức rất lớn. Từ lý thuyết đến thực tế, rủi ro của sự thay đổi này là rất lớn.
Tư tưởng và thực hành ngoại giao truyền thống của Mỹ chịu ảnh hưởng rất lớn từ khái niệm "Thành phố trên đồi". Việc theo đuổi tận tụy "thành phố trên đồi" dẫn đến chủ nghĩa biệt lập, có nghĩa là phớt lờ những điều tồi tệ ở châu Âu cũ và chỉ làm tốt ở Mỹ; nó dẫn đến thuyết "đế chế tà ác" theo phong cách Bush, tuyên thệ mang phúc âm tự do đến thế giới hỗn loạn này. Dù thành công hay thất bại, niềm tin của Thành phố trên Đồi Capitol vẫn là một phần quan trọng trong sức mạnh quốc gia to lớn của nước Mỹ.
Những người theo chủ nghĩa tân bảo thủ 20 năm trước đã kế thừa truyền thống bảo thủ trong các chính sách đối nội, nhưng đã nắm lấy chủ nghĩa tự do trong các vấn đề quốc tế. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Nhiều người theo chủ nghĩa tân bảo thủ thực chất chỉ là những người theo chủ nghĩa tự do bị thực tế xã hội đánh bại, và Fukuyama cũng từng là một người theo chủ nghĩa tân bảo thủ. Là một phe phái có tư tưởng trí thức mạnh mẽ, họ đã hòa nhập một cách suôn sẻ vào lối tư duy tự do trong quan hệ đối ngoại. Chiến tranh Iraq và chiến tranh Afghanistan do chính quyền Bush phát động phù hợp với chủ nghĩa tự do.
Trật tự quốc tế mới của Trump là sự phủ nhận trực tiếp chủ nghĩa tân bảo thủ và chủ nghĩa tự do. Chính sách mới này không còn nhiệt tình trong việc chuyển đổi các quốc gia khác, điều này phản ánh nhu cầu của chủ nghĩa biệt lập, nhưng không phải là sự rút lui vào sự cô lập. Vẫn có nhu cầu quản lý trật tự an ninh toàn cầu, nhưng dựa trên thái độ thực tế. Sự chuyển đổi như vậy là chưa từng có và tất nhiên sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức.
Cụ thể, ngoài cách giải quyết những thách thức thực tế như Trung Đông, Nga và Ukraine và Thái Bình Dương, còn có hai vấn đề lớn về mặt khái niệm.
Đầu tiên, chủ nghĩa song phương của chính quyền Trump đã đình chỉ cơ chế an ninh quốc tế đa phương trong 70 năm qua, điều này khiến các đồng minh truyền thống như châu Âu không hài lòng và bị chỉ trích vì làm suy yếu lòng tin của các đồng minh vào Hoa Kỳ. Việc mất đi sức mạnh mềm này có thể làm suy yếu cơ bản khả năng quản lý trật tự an ninh toàn cầu của Hoa Kỳ. Chính quyền Trump có phần không mấy ấn tượng với điều này. Cái gọi là sức mạnh mềm không nên được đo lường bằng tiếng nói của giới truyền thông. Trong bài phát biểu tại Munich, Phó Tổng thống Vance đã bỏ qua nghi thức ngoại giao và trực tiếp chỉ trích các chính phủ châu Âu vì đã đi chệch hướng trên con đường văn hóa. Điều này cho thấy chính quyền Trump không có hy vọng cũng như tầm quan trọng trong việc giành được lòng tin và sự ủng hộ của các đồng minh truyền thống ở châu Âu. Trên thực tế, trong 20 năm qua, khi năng lực công nghiệp và quân sự của châu Âu suy giảm, các nước châu Âu đã đóng góp rất ít vào các hoạt động toàn cầu do Hoa Kỳ lãnh đạo.
Mặt khác, sau nhiều năm nỗ lực vô ích, dưới áp lực từ chính quyền Trump, châu Âu đã yêu cầu Hoa Kỳ thỏa hiệp trong hai lĩnh vực quan trọng: giảm sự phụ thuộc vào năng lượng của Nga và cam kết tăng chi tiêu quốc phòng lên 5% GDP. Trong tương lai, Hoa Kỳ sẽ phải đối mặt với thử thách lớn khi phải tự mình thực hiện chương trình nghị sự đã định trong khi mất đi lòng tin của một số đồng minh. Nói cách khác, liệu có khả thi khi từ bỏ trật tự an ninh đa phương và áp dụng trật tự an ninh khác biệt hay không?
Thứ hai, khi Hoa Kỳ không còn xem xét vấn đề trật tự an ninh toàn cầu dựa trên các ý tưởng tự do, liệu trật tự an ninh dựa trên luật lệ mà rất nhiều người đã đấu tranh trong suốt thế kỷ qua đã bị phản bội? Việc Trump từ chối lên án những kẻ xâm lược trơ tráo, bắt tay với những nhà cầm quyền được bầu lên một cách phi dân chủ, và những tuyên bố của ông đối với Panama, Greenland và những nơi khác đã làm gia tăng sự nghi ngờ. Vấn đề là việc những người theo chủ nghĩa tự do phủ nhận bản chất rừng rậm quốc tế về mặt đạo đức không giúp ích gì trong việc sửa chữa tình trạng này. Việc ưa chuộng cử chỉ hơn hành động đã là nguyên nhân gây ra nhiều bi kịch trong vài thập kỷ qua, hoặc những bi kịch do những kẻ ngốc có ý tốt gây ra. Sắc lệnh mới của Trump từ bỏ sự can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều quốc gia, nhưng sẽ đưa ra yêu cầu về hành vi đối ngoại của nhiều quốc gia. Ví dụ, nó sẽ làm trung gian cho Chiến tranh Congo, làm trung gian cho Chiến tranh Nga-Ukraine và buộc lực lượng vũ trang Houthi ngừng tấn công các tàu buôn. Đây không phải là xu hướng hoàn toàn biệt lập.
Cuối cùng, đối với những người bảo thủ thuộc phe Trump, lịch sử vẫn chưa kết thúc. Những người theo chủ nghĩa tự do không thể thực hiện "phẫu thuật" và chuyển đổi các quốc gia trên thế giới theo các giá trị và ý tưởng của riêng họ, mà cần tôn trọng thực tế rằng các quốc gia là hệ sinh thái của sự diễn giải tự nhiên và cạnh tranh liên tục. Một thế giới như vậy tất nhiên là vô đạo đức. Lý do cơ bản là nền chính trị của nhiều quốc gia vẫn chưa được xây dựng trên nền tảng đạo đức, chứ không phải dựa trên cách các chính trị gia phát biểu trên diễn đàn. Thế giới dưới trật tự mới vẫn sẽ đầy rẫy bất công, bạo lực và chiến tranh, nhưng xét đến sự thất bại bi thảm của chủ nghĩa can thiệp tự do trong vài thập kỷ qua, thật khó để nói rằng khuôn khổ chính sách như vậy sẽ dẫn đến nhiều bất công, bạo lực và chiến tranh hơn.